Đại học Bách khoa Hà Nộihttps://hust.edu.vn/uploads/sys/logo-dhbk-1-02_130_191.png
Thứ ba - 28/01/2025 20:06
Theo Nghị quyết 14/NQ-CP ngày 8/2/2023 của Chính phủ, trong giai đoạn 2025 - 2035, Đại học Bách khoa Hà Nội phải có sự phát triển đột phá, vượt bậc để vào nhóm các đại học (ĐH) hàng đầu châu Á. Nhân dịp năm mới, Đặc san Bách khoa Hà Nội đã có cuộc trò chuyện với PGS. Huỳnh Quyết Thắng - Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội - xung quanh các nội dung: Xếp hạng ĐH, cơ hội và thách thức khi Bách khoa Hà Nội thuộc nhóm 100 - 150 ĐH hàng đầu châu Á, kế hoạch phát triển Nhà trường năm 2025 và những năm tiếp theo…
XẾP HẠNG ĐẠI HỌC TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI VIỆT NAM
- Thưa Thầy, xếp hạng ĐH dựa trên những tiêu chí như thế nào và làm sao để một cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) có thể được xếp vào nhóm những ĐH hàng đầu châu Á?
* Xếp hạng ĐH có ý nghĩa quan trọng, cung cấp cho xã hội những thông tin đánh giá và góc nhìn bao quát về các cơ sở GDĐH. Trên thế giới có nhiều bảng xếp hạng (BXH) ĐH uy tín, như Quacquarelli Symonds (QS), Times Higher Education (THE),…
Các BXH này đưa ra kết quả dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Ví dụ QS lấy các tiêu chí: Danh tiếng học thuật; Danh tiếng nhà tuyển dụng; Tỷ lệ giảng viên/sinh viên; Tỷ lệ giảng viên có bằng tiến sĩ; Tỷ lệ giảng viên quốc tế và Tỷ lệ sinh viên (SV) quốc tế; Nghiên cứu và công bố quốc tế theo nguồn cơ sở dữ liệu Scopus (Chỉ số trích dẫn trên mỗi bài báo; Chỉ số bài báo trên mỗi giảng viên; Mạng lưới nghiên cứu quốc tế); Tỷ lệ SV trao đổi trong và ngoài nước.
Điểm chung của các ĐH hàng đầu châu Á năm 2025 là sự vượt trội ở các chỉ số “Danh tiếng học thuật” và “Danh tiếng nhà tuyển dụng”. Các chỉ số này minh chứng cho uy tín, tầm ảnh hưởng của ĐH đối với giới học giả và nhà tuyển dụng, bởi chất lượng giáo dục và nghiên cứu hàng đầu. Ngoài ra, chỉ số “Mạng lưới nghiên cứu quốc tế” cũng là một yếu tố quan trọng, thể hiện sự hợp tác nghiên cứu, trao đổi học thuật đa dạng với các tổ chức trên toàn cầu.
Một số cơ sở GDĐH hàng đầu châu Á như ĐH Bắc Kinh (Trung Quốc) và ĐH Quốc gia Singapore còn nổi bật về tỷ lệ giảng viên và SV quốc tế, cho thấy sự hội nhập và môi trường học thuật đa dạng. Trong khi đó, ĐH Công nghệ Nanyang (Singapore) lại ghi điểm nhờ năng lực nghiên cứu vượt trội với số lượng bài báo và chỉ số trích dẫn cao.
Một đặc điểm khác là các ĐH đa ngành, đa lĩnh vực thường được xếp ở nhóm trên các trường ĐH khối công nghệ, do đào tạo và nghiên cứu trải đều ở nhiều nhóm lĩnh vực.
Nhìn chung, để đạt được vị trí cao trên BXH, cần sự cam kết đầu tư bài bản, lâu dài từ Nhà nước về nguồn lực và hỗ trợ chính sách. Sự đầu tư nguồn lực của Nhà nước là cần thiết, vì các cơ sở GDĐH cần đầu tư rất lớn cho nghiên cứu, nhưng không phải là doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm, nên nguồn thu từ hoạt động khoa học công nghệ khó có thể bù đắp. Sự hỗ trợ chính sách của Nhà nước về tự chủ ĐH và đặt hàng nghiên cứu, đào tạo cũng rất cần thiết, là điều kiện để cơ sở GDĐH phát huy tiềm năng đổi mới sáng tạo (ĐMST) và khẳng định trách nhiệm xã hội.
Đồng thời, bản thân cơ sở GDĐH cần cụ thể hóa chiến lược phát triển thành các kế hoạch hiệu quả và khả thi, để từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu và quốc tế hóa.
- Như vậy các tiêu chí xếp hạng gắn liền với kết quả đo lường hoạt động của cơ sở GDĐH. Xin Thầy đánh giá về vai trò của xếp hạng đối với chiến lược phát triển của các cơ sở GDĐH Việt Nam?
* “Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 31/12/2024 đã chỉ rõ: “Đến năm 2030 có ít nhất 5 cơ sở GDĐH được xếp hạng trong số 500 trường ĐH tốt nhất thế giới, 5 cơ sở GDĐH vào nhóm 200 trường ĐH hàng đầu châu Á; Việt Nam nằm trong 4 quốc gia có hệ thống GDĐH tốt nhất khu vực Đông Nam Á và trong 10 quốc gia có hệ thống GDĐH tốt nhất châu Á”.
Như vậy, từ góc nhìn xã hội và góc nhìn quản lý Nhà nước, đều thấy rằng xếp hạng ĐH là một xu hướng tất yếu trong bối cảnh hội nhập của giáo dục Việt Nam, giúp các cơ sở GDĐH liên tục cải tiến và nâng cao chất lượng.
Thông qua xếp hạng, các cơ sở GDĐH Việt Nam có sự đối sánh với quốc tế, để xác định rõ hơn về điểm mạnh và điểm yếu, tương quan vị thế so với các cơ sở GDĐH khác trong khu vực và trên thế giới. Từ đó, xây dựng các chiến lược và giải pháp cải tiến chất lượng, nâng cao vị thế của mỗi cơ sở GDĐH.
Một số tác động tích cực mà xếp hạng ĐH đem lại như sau:
1. Nâng cao uy tín trong nước và quốc tế: Nâng vị trí xếp hạng sẽ giúp các cơ sở GDĐH có uy tín và vị thế tốt hơn trong hệ thống giáo dục quốc gia và quốc tế, từ đó tạo ra khả năng thu hút SV, giảng viên quốc tế chất lượng. Việc cải thiện vị trí trên BXH không chỉ là minh chứng cho chất lượng giảng dạy và nghiên cứu, mà còn là một trong những mục tiêu chiến lược của cơ sở GDĐH, khẳng định thương hiệu và gia tăng sức cạnh tranh toàn cầu của nhà trường.
2. Tăng cường gắn kết với thị trường lao động: “Danh tiếng nhà tuyển dụng” là tiêu chí quan trọng để xếp hạng ĐH. Điều đó thúc đẩy các cơ sở GDĐH phải gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp, nắm bắt nhu cầu của nhà tuyển dụng. Từ đó, chương trình đào tạo (CTĐT) được hoàn thiện, mạng lưới đối tác được mở rộng theo hướng gắn kết với thị trường lao động.
3. Thu hút nguồn lực đầu tư: Thứ hạng cao trên BXH ĐH là lợi thế so sánh để thu hút tài trợ, tiếp nhận đầu tư, hợp tác từ Chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế, như các dự án Worldbank, ADB, KOICA.
4. Thúc đẩy hợp tác quốc tế: Xếp hạng ĐH dựa trên các tiêu chí về quốc tế hóa. Do đó, xuất phát từ yêu cầu cải thiện vị trí xếp hạng đã tạo nên động lực thúc đẩy các cơ sở GDĐH mở rộng hợp tác học thuật với giới học giả quốc tế và tích cực phát triển các chương trình trao đổi SV và giảng viên (theo cả hai chiều đến và đi).
5. Thúc đẩy ĐMST: Xếp hạng ĐH căn cứ trên tiêu chí công bố khoa học và chuyển giao công nghệ (CGCN). Thông qua đó, khuyến khích các cơ sở GDĐH tăng cường nghiên cứu khoa học (NCKH), đổi mới công nghệ và tham gia các dự án mang tính thực tiễn cao.
Tựu trung, xếp hạng ĐH giúp các cơ sở GDĐH nâng cao uy tín nhà trường, đội ngũ cán bộ, giảng viên, thu hút các nguồn lực đầu tư từ Nhà nước, các tổ chức quốc tế, các quỹ, mở rộng khả năng hợp tác quốc tế trong giảng dạy và NCKH. Xếp hạng cũng là động lực để các cơ sở GDĐH xây dựng chiến lược dài hạn, tập trung nâng cao năng lực nghiên cứu, mở rộng mạng lưới đối tác quốc tế. Khi môi trường đào tạo và nghiên cứu được cải thiện, chất lượng đào tạo nhân lực sẽ nâng cao, đem lại giá trị bền vững cho cho cộng đồng.
Như vậy, không chỉ giới hạn ở phạm vi nhà trường, xếp hạng ĐH đem lại lợi ích chung, trong mối liên hệ giữa “Nhà nước - Nhà trường - Nhà tuyển dụng”. ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI VÀO NHÓM CÁC ĐH HÀNG ĐẦU CHÂU Á: 2 CƠ HỘI, 3 THÁCH THỨC
- Việc nâng cao vị trí trên BXH GDĐH có ý nghĩa quan trọng, nên Nghị quyết 14/NQ-CP ngày 8/2/2023 Chính phủ nêu rõ “giai đoạn 2023-2025, phải xây dựng Đề án phát triển Đại học Bách khoa Hà Nội trong nhóm các cơ sở GDĐH hàng đầu châu Á trình Chính phủ phê duyệt”. Thưa Thầy, với nhiệm vụ mang tính đột phá này, Đại học Bách khoa Hà Nội có những cơ hội và thách thức cụ thể gì?
* Sự tin tưởng, đánh giá cao từ phía Chính phủ, quan tâm giao trọng trách cho Đại học Bách khoa Hà Nội đã mở ra 2 cơ hội lớn:
Thứ nhất, cơ hội để Đại học Bách khoa Hà Nội đạt được bước phát triển về chất, vươn tới ngang tầm khu vực về đào tạo và NCKH đa lĩnh vực, trong đó kỹ thuật và công nghệ làm nòng cốt. Sự phát triển đột phá của Đại học Bách khoa Hà Nội cũng sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của GDĐH Việt Nam. Cụ thể:
- Xây dựng Đại học Bách khoa Hà Nội phát triển bền vững, tự chủ toàn diện với mô hình quản trị tiên tiến, hệ thống tài chính vững mạnh, hạ tầng khuôn viên và cơ sở vật chất (CSVC) hiện đại ngang tầm khu vực;
- Triển khai mạnh mẽ chuyển đổi số, phát triển Đại học Bách khoa Hà Nội theo mô hình ĐH số chia sẻ;
- Xây dựng môi trường học thuật sáng tạo, cởi mở và quốc tế hóa; thu hút SV ưu tú, học giả xuất sắc trong nước và quốc tế đến học tập, nghiên cứu và làm việc;
- Đổi mới mạnh mẽ chương trình, phương pháp dạy và học đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và bồi dưỡng nhân tài, mở rộng đào tạo chất lượng cao theo định hướng quốc tế hóa.
Thứ hai, thực hiện nhiệm vụ vươn tới nhóm ĐH hàng đầu châu Á cũng là cơ hội để Đại học Bách khoa Hà Nội đóng góp quan trọng vào sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, chuyển đổi số quốc gia và hội nhập quốc tế. Cụ thể:
- Gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ và ĐMST với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà Nội, vùng Đồng bằng sông Hồng và cả nước, phù hợp với các quy hoạch, định hướng, chiến lược quốc gia và vùng;
- Khơi dậy cho SV khả năng sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp thông qua tăng cường các học phần sáng tạo, khởi nghiệp và kinh doanh, tham gia các CLB, các cuộc thi, tạo nguồn cho các dự án ươm tạo và khởi nghiệp…
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả NCKH, CGCN và ĐMST; Đẩy mạnh phát triển các sản phẩm “Make in Bách khoa” trong một số lĩnh vực KHCN then chốt; Xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, khẳng định và nâng cao vị thế thương hiệu của Nhà trường;
- Phát huy các lĩnh vực thế mạnh của Đại học Bách khoa Hà Nội (trong các lĩnh vực Trí tuệ nhân tạo, Điện tử - Bán dẫn, Tự động hóa, Công nghệ sinh học, Y dược, Công nghệ vật liệu mới, Xử lý môi trường…) để đóng góp cho Thủ đô và tham gia xây dựng Trung tâm khởi nghiệp ĐMST vùng Đồng bằng sông Hồng.
Bên cạnh 2 cơ hội lớn với nhiệm vụ phát triển đột phá, vươn tới nhóm các ĐH hàng đầu châu Á, Bách khoa Hà Nội cần vượt qua 3 thách thức:
1. Nguồn lực đầu tư: Đại học Bách khoa Hà Nội cần nỗ lực huy động mọi nguồn lực để có thể đầu tư phát triển tương xứng với vai trò và sứ mạng. Trong đó, tập trung nguồn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước cho hạ tầng kỹ thuật, CSVC hiện đại, mở rộng không gian phát triển ĐHBK Hà Nội đạt tầm cỡ khu vực và thế giới;
2. Đội ngũ giảng viên, nhà nghiên cứu: Hiện nay, đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn cao, giảng viên người nước ngoài vẫn còn thiếu hụt, cần tiếp tục bổ sung và phát triển;
3. Cơ cấu nguồn thu: Tỷ trọng nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu, hợp tác doanh nghiệp, CGCN, ĐMST, hợp tác quốc tế, dịch vụ còn rất hạn chế so với chuẩn của cơ sở GDĐH quốc tế hàng đầu, cần nỗ lực lớn để tăng tỷ trọng đó lên so với nguồn thu từ học phí. ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI THUỘC NHÓM CÁC ĐH HÀNG ĐẦU CHÂU Á ĐANG TRÌNH CHÍNH PHỦ PHÊ DUYỆT
- Trước những cơ hội và thách thức đặt ra, Thầy có thể cho biết nhiệm vụ xây dựng “Đề án phát triển ĐHBK Hà Nội trong nhóm các cơ sở GDĐH hàng đầu châu Á” đã và đang được thực hiện như thế nào?
* Xác định đây là trọng trách và niềm vinh dự trước Đảng, Nhà nước và xã hội, nên công việc được thực hiện khẩn trương và bài bản.Đại học Bách khoa Hà Nội đã thành lập Tổ xây dựng “Đề án Phát triển Đại học Bách khoa Hà Nội thuộc nhóm các cơ sở GDĐH hàng đầu châu Á”. Cùng với các chuyên gia của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD&ĐT), Nhà trường đã tổ chức nghiên cứu, xây dựng quan điểm, nguyên tắc, mục tiêu và đề xuất lộ trình, nhiệm vụ, giải pháp phát triển Đại học Bách khoa Hà Nội đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045. Sau đó, gửi Đề án xin ý kiến các Bộ và địa phương liên quan.
Tháng 9 năm 2024, nhận được ý kiến tổng hợp của 3 Bộ (Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Khoa học và Công nghệ) cùng với 2 UBND tỉnh/thành phố (Hà Nội, Hưng Yên).
Tiếp thu ý kiến từ các Bộ và địa phương, Nhà trường và chuyên gia Bộ GD&ĐT đã tổ chức các Hội thảo chuyên đề, chỉnh sửa Đề án. Phiên bản hoàn thiện của Đề án được chính thức trình Chính phủ ngày 31/12/2024 để xem xét, phê duyệt.
Mục tiêu chung của Đề án là phát triển Đại học Bách khoa Hà Nội trở thành một cơ sở GDĐH hiện đại, thuộc nhóm hàng đầu châu Á trong lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ; Là một trung tâm xuất sắc về đào tạo, phát triển tài năng, nghiên cứu và ĐMST, giữ vai trò dẫn dắt trong hệ thống GDĐH Việt Nam ở các ngành công nghệ và công nghiệp chiến lược; Đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà Nội, vùng Đồng bằng sông Hồng và cả nước.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2030: Đại học Bách khoa Hà Nội trở thành một ĐH hiện đại, một cơ sở đào tạo, phát triển tài năng, trung tâm nghiên cứu, ĐMST xuất sắc trong các lĩnh vực công nghệ trọng điểm; Đóng góp quan trọng vào chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tri thức, kinh tế số của Thủ đô Hà Nội và đất nước; Thuộc nhóm 100 - 150 ĐH hàng đầu châu Á về lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ.
Mục tiêu cụ thể năm 2035: Đại học Bách khoa Hà Nội trở thành trung tâm đào tạo tài năng, nghiên cứu và ĐMST xuất sắc, đứng đầu trong nước, là hạt nhân của mạng lưới cơ sở GDĐH trọng điểm về khoa học công nghệ; Với nòng cốt là kỹ thuật và công nghệ, thu hút đầu tư và phát triển công nghệ cao, tạo động lực quan trọng cho phát triển Thủ đô Hà Nội và đất nước; Thuộc nhóm 100 - 150 ĐH hàng đầu châu Á, phấn đấu thuộc nhóm 300 ĐH hàng đầu thế giới. CÁC CON SỐ PHẤN ĐẤU ĐẾN 2030 CỦA ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
- Mục tiêu của Đại học Bách khoa Hà Nội đến 2030 là rất ấn tượng, hướng đến sự nâng tầm thứ hạng mạnh mẽ. Theo các chuyên gia, muốn nâng vị trí xếp hạng quốc tế, cần chủ động nghiên cứu các chỉ số đánh giá của từng BXH và các chỉ số thực hiện (KPI) của nhóm các ĐH trong tầm thứ hạng mà mình muốn hướng đến, để từ đó xác định các định mức chuẩn, rồi phấn đấu theo kế hoạch cụ thể. Vậy thưa Thầy, Bách khoa Hà Nội đã đặt ra các con số phấn đấu như thế nào để đạt được mục tiêu đến năm 2030, vào nhóm 100 - 150 ĐH hàng đầu châu Á?
* Căn cứ trên phân tích các chỉ số và mục tiêu phát triển, Đại học Bách khoa Hà Nội đã đặt ra các con số phấn đấu đến năm 2030 như sau:
Thứ nhất, mở rộng không gian Đại học Bách khoa Hà Nội cho sự “phát triển mở rộng gắn liền với phát huy nền tảng”. Để mở rộng quy mô và không gian hoạt động cho đào tạo và ĐMST, phân hiệu Đại học Bách khoa Hà Nội sẽ được thành lập và hoàn thiện xây dựng hạ tầng kỹ thuật, CSVC tại tỉnh Hưng Yên. Điều đó phù hợp với mô hình ĐH hiện đại, tăng cường kết nối khu vực Đồng bằng sông Hồng.
Đồng thời, hiện đại hóa trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội đạt tầm khu vực, phục vụ đào tạo và nghiên cứu các lĩnh vực công nghệ trọng điểm nhằm đảm bảo sự kết nối với các cơ quan Trung ương và Hà Nội, cũng như các tổ chức trong nước và quốc tế, đồng thời gìn giữ và phát huy di sản văn hóa gắn với khu vực nội đô lịch sử. Nhiệm vụ cụ thể là:
- Hoàn thành quy hoạch 1/500, xây dựng được 20% hạ tầng kỹ thuật và đầu tư CSVC phục vụ đào tạo tại phân hiệu Đại học Bách khoa Hà Nội tỉnh Hưng Yên theo tiêu chí hiện đại và bản sắc, đáp ứng quy mô dự kiến 30.000 người học theo quy hoạch được phê duyệt;
- Xây dựng mới và nâng cấp được ít nhất 60.000 m2 tại trụ sở chính của Đại học Bách khoa Hà Nội trong TP. Hà Nội; Đầu tư mới 30 phòng thí nghiệm đào tạo và 30 phòng thí nghiệm nghiên cứu trong các ngành công nghệ và công nghiệp chiến lược.
Thứ hai, Đại học Bách khoa Hà Nội trở thành cơ sở đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ, đào tạo kỹ sư hàng đầu cả nước, là trung tâm thu hút nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao, giữ vai trò dẫn dắt trong hệ thống GDĐH Việt Nam. Cụ thể:
- Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ đạt 85%, trong đó 30% có chức danh Giáo sư, Phó giáo sư;
- Số lượng CTĐT giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh chiếm 25% tổng số CTĐT; Số lượng giảng viên, nhà khoa học uy tín từ nước ngoài đến giảng dạy, nghiên cứu và trao đổi học thuật chiếm 10% tổng số giảng viên, nhà khoa học làm việc tại Đại học Bách khoa Hà Nội;
- Đào tạo 10.000 kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ đạt tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng nhu cầu của các ngành công nghệ và công nghiệp chiến lược, góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho Thủ đô Hà Nội, vùng Đồng bằng sông Hồng và cả nước;
- Đào tạo ít nhất 300 tiến sĩ khoa học, kỹ thuật và công nghệ, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên tại các cơ sở GDĐH Việt Nam.
Thứ ba, phát triểnĐại học Bách khoa Hà Nội thành trung tâm nghiên cứu, ĐMST hàng đầu của Thủ đô Hà Nội và vùng Đồng bằng sông Hồng về khoa học, kỹ thuật và công nghệ, trong đó, có một số ngành đạt trình độ hàng đầu khu vực châu Á. Cụ thể:
- Số lượng công bố khoa học nằm trong danh mục Web of Science, SCOPUS đạt trung bình 2 công bố/giảng viên/năm; Số lượng sở hữu trí tuệ được công nhận trung bình đạt 30 bằng sở hữu/năm;
- Có ít nhất 6 nhóm ngành (trong số các nhóm ngành: Khoa học máy tính và Hệ thống thông tin; Điện - Điện tử; Cơ khí; Hàng không và Chế tạo; Toán học; Khoa học Vật liệu; Hóa học, Vật lý và Thiên văn) được xếp hạng trong khu vực và thế giới;
- Có ít nhất 6 sản phẩm “Make in Bách khoa” được thương mại hóa, đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà Nội, vùng Đồng bằng sông Hồng và cả nước;
- Đại học Bách khoa Hà Nội là trung tâm mạng lưới ĐMST của Thủ đô Hà Nội và vùng Đồng bằng sông Hồng với ít nhất 10 công ty khởi nghiệp sáng tạo, được ươm tạo và gọi vốn thành công có tổng giá trị trên 10 triệu USD. 3 QUAN ĐIỂM, 6 NHÓM GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI BÁCH KHOA ĐỂ HOÀN THÀNH TRỌNG TRÁCH CỦA ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI VỚI ĐẤT NƯỚC, VƯƠN TẦM KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI
- Thưa Thầy, để những con số phấn đấu trở thành kết quả thực tiễn, cần rất nhiều nỗ lực của toàn thể đội ngũ. Xin Thầy chia sẻ quan điểm và giải pháp tổng thể của lãnh đạo ĐH để hội tụ sự đồng tâm, hợp sức của người Bách khoa, cùng phấn đấu vì mục tiêu chung?
* Quan điểm phát triển của ĐHBK Hà Nội dựa trên 3 trụ cột chính:
1. Quan điểm về hệ thống: “Một Bách khoa, Tinh - Gọn - Hiệu quả”.
Dựa trên phương châm “thống nhất trong đa dạng”, Đại học Bách khoa Hà Nội đảm bảo tính đa dạng, cơ hội phát triển, phát huy tối đa các thế mạnh, nâng cao tính tự chủ, trách nhiệm giải trình cho tất cả các đơn vị trong Đại học Bách khoa Hà Nội. Đồng thời để tập trung sức mạnh, Đại học Bách khoa Hà Nội đảm bảo tính thống nhất về tổ chức, tầm nhìn và mục tiêu chung. Hệ thống vận hành với cấu trúc tinh, gọn, chuyên môn hóa, cơ chế phối hợp đồng bộ, đảm bảo hiệu quả.
2. Quan điểm về vai trò: “Nhà trường làm nền tảng - Người thầy là chủ thể, là động lực phát triển - Người học là trung tâm”.
Con người là cốt lõi, nhân tố quyết định. Nhà trường kiến tạo môi trường và điều kiện. Từ phương châm đó, xây dựng Đại học Bách khoa Hà Nội hiện đại, có môi trường và điều kiện làm việc, đào tạo, nghiên cứu, ĐMST, khởi nghiệp ngang tầm khu vực và thế giới.
Đại học Bách khoa Hà Nội trở thành nơi hội tụ và thu hút học giả xuất sắc trong nước và quốc tế đến nghiên cứu và làm việc, tập trung mọi điều kiện tốt nhất cho người thầy được khai phóng tiềm năng, phát huy trí tuệ và năng lực sáng tạo tri thức.
Với môi trường học tập và trải nghiệm tốt, với người thầy tận tâm và trí tuệ, Đại học Bách khoa Hà Nội là nơi thu hút SV ưu tú đến học tập và phát triển tài năng. Người học thực sự là đối tượng trung tâm, được dẫn dắt, hỗ trợ để sáng tạo, phát huy năng lực và phát triển.
3. Quan điểm về bản sắc: “Vun đắp, phát huy giá trị truyền thống, danh tiếng của Đại học Bách khoa Hà Nội và người Bách khoa”:
“Cây có cội, nước có nguồn”, cần dựa trên nền tảng được vun đắp qua nhiều thế hệ và phát huy bản sắc, thì mới có sự phát triển bền vững. Vì vậy, quan điểm nhất quán là: Gìn giữ, phát triển danh tiếng, uy tín của Đại học Bách khoa Hà Nội, luôn giữ truyền thống văn hóa Việt Nam và bản sắc dân tộc; Xây dựng cộng đồng gắn kết và lan tỏa giá trị người Bách khoa, Đại học Bách khoa Hà Nội.
Bên cạnh đó, dựa trên bản sắc người Bách khoa như một nền tảng vững chắc, luôn phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo để nâng tầm vị thế và tạo ảnh hưởng về tri thức tới sự phát triển của xã hội và đất nước. Đặc biệt chú trọng lấy kỹ thuật công nghệ làm nòng cốt, tác động quan trọng vào đổi mới, thúc đẩy phát triển GDĐH Việt Nam.
Từ 3 quan điểm chủ đạo nêu trên, Đại học Bách khoa Hà Nội xây dựng các giải pháp tổng thể dựa trên 6 nội dung chính:
1. Vì thành công của người học.
Toàn bộ nguồn lực và nỗ lực của Đại học Bách khoa Hà Nội để tạo nên môi trường và điều kiện học tập, trải nghiệm, nghiên cứu, ĐMST, hướng nghiệp và khởi nghiệp cho người học. Thành công của người học là một sự đo lường kết quả hoạt động của ĐH. Tình cảm gắn bó, niềm tự hào của người học đối với Bách khoa Hà Nội và đất nước là nền tảng cho sự phát triển bền vững của ĐH.
2. Để người thầy tỏa sáng.
Đại học Bách khoa Hà Nội kiến tạo môi trường sư phạm giàu bản sắc, gìn giữ truyền thống “tôn sư trọng đạo”. Người thầy được tạo điều kiện để tỏa sáng với năng lực, phẩm chất dẫn dắt người học và đem lại sự phát triển cho người học. Nhà trường tạo nền tảng cho đội ngũ giảng viên, nhà nghiên cứu phát huy năng lực làm chuyên môn, NCKH và ĐMST.
3. Đại học Bách khoa Hà Nội với trách nhiệm cộng đồng và trách nhiệm quốc gia.
Đại học Bách khoa Hà Nội được thành lập với sứ mệnh tiên phong, mở đầu thời kỳ tự chủ đào tạo kỹ sư công nghiệp của đất nước. Nhà trường luôn đáp ứng niềm tin của Đảng, Nhà nước, Chính phủ với thành tựu về đào tạo, NCKH và thực hiện nhiệm vụ quốc gia. Đại học Bách khoa Hà Nội tiếp tục nỗ lực toàn diện trong chuyển đổi số, thúc đẩy đào tạo và nghiên cứu các lĩnh vực khoa học công nghệ trọng điểm, ĐMST để đóng góp cho sự phát triển Thủ đô Hà Nội, vùng Đồng bằng sông Hồng và tiên phong trong hệ thống GDĐH Việt Nam.
4. Đại học Bách khoa Hà Nội với trách nhiệm khu vực và thế giới.
Thời gian tới đây sẽ tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế trong đào tạo, NCKH, trao đổi chuyên gia, học viên, nâng cao vị thế xếp hạng quốc tế, đóng góp tri thức khoa học, góp phần giải quyết những vấn đề chung của khu vực và thế giới.
5. Đại học Bách khoa Hà Nội phát triển tinh, gọn, hiệu quả, theo các chuẩn mực quốc tế.
Bách khoa Hà Nội không ngừng đổi mới, hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt động theo các chuẩn mực quốc tế, phù hợp với điều kiện của đơn vị sự nghiệp công lập. Nâng cao tính chuyên sâu về chuyên môn nghiệp vụ, phân cấp tự chủ và nâng cao trách nhiệm giải trình, gắn kết với hiệu quả được đo lường và chuẩn đầu ra đào tạo.
6. Đại học Bách khoa Hà Nội được đầu tư xây dựng hiện đại, xanh, thông minh, CSVC ngang tầm khu vực.
Phát triển không gian Bách khoa cả về quy mô và tính hiện đại, cùng với các giải pháp công nghệ và thân thiện môi trường. Tạo dựng CSVC ngang tầm khu vực là điều kiện cho Đại học Bách khoa Hà Nội thực hiện được nhiệm vụ vươn tới vị trí quốc tế hàng đầu.
Tôi tin tưởng chắc chắn rằng với 3 quan điểm chủ đạo và 6 nhóm giải pháp, đảm bảo sự phát triển của thầy và trò, đảm bảo trách nhiệm của Đại học Bách khoa Hà Nội với quốc gia, khu vực và thế giới, sẽ hội tụ được sự đồng lòng và nhất trí cao của cán bộ, giảng viên, người học để cùng phát triển Đại học Bách khoa Hà Nội, hòa chung vào kỷ nguyên mới, phát triển thịnh vượng của dân tộc Việt Nam.
- Xin trân trọng cảm ơn Thầy về những thông điệp sâu sắc và tầm nhìn phát triển cho Đại học Bách khoa Hà Nội. Kính chúc Thầy cùng Tập thể Lãnh đạo ĐH một năm mới giàu năng lượng và thành công!